CHIẾN DỊCH XUÂN MẬU THÂN 1968 – BƯỚC NGOẶT QUYẾT ĐỊNH VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ

Được đăng ngày Thứ ba, 30 Tháng 1 2018 00:25
Viết bởi Quản trị viên

 

 

Quân giải phóng tấn công sân bay Tân Sơn Nhất trong chiến dịch Mậu Thân 1968. Ảnh tư liệu

* Những nét cơ bản của chiến dịch Xuân Mậu Thân 1968

Cách đây 50 năm, vào đêm 30, rạng sáng 31-1-1968 (đêm mùng 1 Xuân Mậu Thân 1968), Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã diễn ra trên 3 vùng chiến lược. Quân và dân đã đồng loạt tiến công và nổi dậy ở 4/6 thành phố lớn, trọng điểm là Sài Gòn - Gia Định và Huế; 37/44 thị xã và hàng trăm quận lỵ, thị trấn... ở miền Nam.

Từ cuối năm 1967, ta đã thiết lập được 19 "lõm" chính trị (các cơ sở cách mạng quần chúng ) ngay sát những mục tiêu trọng yếu của địch. Các đơn vị đã chuyển vào nội thành 450 kg thuốc nổ TNT, hơn 150 khẩu súng, 90 quả đạn… và giữ được bí mật đến tận giờ nổ súng dù thời gian chuẩn bị gấp gáp.

Chỉ trong 24 giờ, toàn bộ hậu phương an toàn của kẻ địch với nhiều cơ quan đầu não như: Dinh Độc Lập, Tòa Đại sứ Mỹ, Bộ Tổng Tham mưu, Bộ Tư lệnh Hải quân, Tổng nha Cảnh sát, Đài Phát thanh Sài Gòn… bị tấn công đồng loạt. Cuộc tiến công táo bạo đã làm cho bộ máy điều hành chiến tranh của Mỹ và hơn 1 triệu quân sững sờ, choáng váng.

Lực lượng biệt động là một sáng tạo về hình thức tổ chức lực lượng vũ trang của Đảng - gọn nhẹ, bí mật, linh hoạt, nằm trong dân, hòa với dân, thường xuyên hoạt động trong lòng địch... Với tinh thần dũng cảm vô song, lối đánh táo bạo và thông minh, sự hy sinh to lớn của lực lượng biệt động đã góp phần xứng đáng tạo nên hiệu quả chiến lược lớn của cuộc tổng tiến công.

Đòn tiến công Xuân Mậu Thân 1968 đã gây chấn động nước Mỹ, khắp nơi biểu tình chống chiến tranh. Mỹ quyết định chấm dứt leo thang chiến tranh, tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc và chấp thuận ngồi vào bàn đàm phán song phương với Việt Nam tại Paris.

* Ý nghĩa lịch sử:

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 mãi mãi khắc sâu vào lịch sử dân tộc như một bản anh hùng ca bất diệt của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, đồng thời để lại cho chúng ta nhiều bài học kinh nghiệm quý báu về nghệ thuật quân sự để vận dụng, phát triển trong điều kiện mới của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc.

Một là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nắm chắc tình hình; có các chủ trương, đường lối lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo phù hợp với thực tiễn phát triển của chiến tranh cách mạng trong điều kiện mới của Việt Nam.

Hai là, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc và yếu tố chính trị - tinh thần.

Xây dựng và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược quan trọng tạo nên sức mạnh vô địch trong chiến tranh cũng như trong hoà bình xây dựng, phát triển đất nước. Do đó, cần chăm lo khối đại đại đoàn kết ngay từ thời bình, để "lo giữ nước khi nước còn chưa nguy" theo kinh nghiệm truyền thống của cha ông. Xây dựng, phát huy tốt yếu tố chính trị - tinh thần của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta là nhân tố làm chuyển hoá so sánh lực lượng để "lấy ít địch nhiều", "lấy nhỏ thắng lớn", là nét độc đáo của nền nghệ thuật quân sự Việt Nam cần nhân lên trong điều kiện mới

Ba là, xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố vững chắc, làm nền tảng của thế trận chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc.

Thực tiễn sự kiện lịch sử này cho thấy, vai trò quan trọng của lực lượng tại chỗ, của thế trận chiến tranh nhân dân. Do đó, chăm lo bảo đảm tốt đời sống của nhân dân, thực hiện dân chủ, nhất là dân chủ ở cơ sở, góp phần xây dựng "thế trận lòng dân" vững chắc. Đồng thời, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức đảng, hiệu lực quản lý, điều hành của chính quyền các cấp

Bốn là, phát triển tiềm lực quốc phòng, quân sự.

Phát triển tiềm lực quốc phòng, quân sự tạo ra khả năng về vật chất và tinh thần có thể huy động được cho nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, giữ vững hoà bình, ngăn ngừa mọi âm mưu, hành động gây chiến tranh của các thế lực thù địch, sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược ở mọi quy mô, nếu xảy ra. Sức mạnh của chiến tranh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp, vì vậy, xây dựng tiềm lực quốc phòng, quân sự phải nhằm góp phần tạo ra sức mạnh tổng hợp, chủ động chuẩn bị, gắn liền với mỗi bước tăng trưởng, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Năm là, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân trong sạch, vững mạnh làm nòng cốt của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc.

Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, trước hết là quân đội nhân dân và công an nhân dân chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, xứng đáng là lực lượng chính trị tuyệt đối trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân, làm nòng cốt trong sự nghiệp củng cố quốc phòng - an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, phát huy sức mạnh tổng hợp của quần chúng nhân dân, các lực lượng và cả hệ thống chính trị, trong đó lực lượng vũ trang ba thứ quân đóng vai trò chủ đạo.

 

Lường Thị Pó